Tên di sản : Phủ Vĩnh Khê
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 419/QĐ-UBND
Giới thiệu
Về không gian của di tích:
Phủ Vĩnh Khê nằm ở trung tâm làng Vĩnh Khê trên một dải đất cao nhìn hướng tây ra cánh đồng trũng trước Phủ có tên là đồng Phủ. Đây là vùng đất có sông Nổ Hiền (tức sông Nhà Lê) đi qua chảy vòng ở phía đông làng như một dải lụa mềm, vừa là nơi cung cấp nước tưới cho những cánh đồng Phủ, Sao Sa, Cống Ba, Mau Đá, vừa là nơi tiêu nước chảy xuống vực Bưu (làng Lễ Động) để chảy ra sông Nhơm. Phía đông Vĩnh Khê giáp với làng Lễ Động, vốn là đất phân phong của con cháu Vũ Uy (vị khai quốc công thần triều Lê) là Vũ Văn Lộc, có núi Lễ Động và chùa Lễ Động (được xây dựng trên đỉnh núi cao chừng 400m), tương truyền ở đây cứ 10 năm lại có tiếng Thần đồng học trên chùa, phần nào phản ánh về một vùng đất học, nên núi ấy có tên là Thần Đồng. Với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và giàu chất thơ đó đã tạo cho Phủ Vĩnh Khê một không gian toạ lạc linh thiêng có sức hấp dẫn khách hành hương không chỉ là chốn tâm linh mà còn ở cảnh quan sơn thuỷ hữu tình.
Về kết cấu kiến trúc:
Phủ Vĩnh Khê bị phá huỷ hoàn toàn vào thời kỳ những năm 1965-1966 trong kháng chiến chống Mỹ. Vật liệu kiến trúc được sử dụng để xây trạm xá, trường học của địa phương lúc đó.
Đến năm 1992, Phủ Vĩnh Khê đã được chính quyền địa phương và nhân dân làng Vĩnh Khê dựng lại trên nền đất cũ gồm có các công trình sau:
Cổng Phủ: được xây hai cột trụ gạch, trát vữa xi măng, có kích thước chiều cao 2,5m, chiều rộng 0,45m, vuông bốn mặt, đỉnh gắn hình nghề chầu.
Sân: có kích thước chiều dài 11,9m, chiều rộng 6,85m, lát gạch bát màu nâu đỏ, xung quanh được xây tường hoa thấp; ở góc sân (bên hữu) dụng cây hướng thờ thần thổ địa.
Phủ chính: gồm có nhà Tiền đường và Hậu cung kết cấu theo kiểu chữ Đinh (J).
Nhà Tiền đường: cấu trúc 3 gian, có kích thước chiều dài 8,4m, chiều rộng 4,05m, chiều cao từ thượng lương xuống mặt nền là 4,85m. Kết cấu có 2 vì được làm theo kiểu biến thể vì kèo truyền thống gác trênh; phía trên có đấu trụ, câu đầu và kèo suốt đỡ mái. Vật liệu của vì kèo: Tránh làm bằng bê tông cốt thép, sơn màu giả gỗ; câu đầu, đấu trụ, kèo suốt làm bằng gỗ bào trơn đóng bén; hoành tải, rui mè làm bằng luồng ngâm. Ở Phía ngoài Phủ được cấu trúc 4 mái: hai mái chính (trước sau) và hai mái diêm. Ở đây phần mái diêm không phải là nội thất của ngôi nhà mà được xây 2 bức tường vỉ ở hai bên để ngăn cách giữa nội thất với hiện của mái diêm để tạo thành hành lang thông giữa hiện trước và hiện hồi (3 mặt của ngôi nhà). Mái phủ được lợp ngói mũi (số ngói này vốn trước là của Phủ được sử dụng vào công trình công cộng khác, nay được sử dụng lại). Bờ dải đắp đường gờ chỉ; nóc quyết đắp đấu trụ hai bên có kìm nóc, lưỡng long chầu nguyệt ở đỉnh mái. Nhà được mở ba cửa ra vào ở 3 gian: có kích thước chiều cao: 2,35m, chiều rộng: 1,56m; Hai cửa bên có kích thước bằng nhau: chiều cao 2,35m, chiều rộng 1,17m. Cánh cửa làm theo kiểu Panô.
Nhà Hậu cung: được cấu trúc dọc, có kích thước chiều dài 3,55m, chiều rộng 3,08m, chiều cao từ thượng lương xuống mặt nền là 4,65m. Vì kèo làm theo kiểu biến thể vì kèo truyền thống, gác tránh với chất liệu bằng bê tông cốt thép, sơn màu giả gỗ; hoành tải, rui mè bằng luồng, mái ngói mũi truyền thống. Đi vào Hậu cung được mở hai cửa nhỏ cuốn vòm ở hai bên thông với Nhà Tiền đường, để trống, không có cánh cửa, khoảng cách của hai cửa bên (ở giữa) xây bịt kín, làm nơi đặt ban thờ công đồng ở nhà Tiền đường.
Bài trí đồ thờ trong di tích:
Nhà Hậu cung đặt 1 bệ thờ 2 lớp: lớp trên có kích thước 4,85m, chiều dài 1,85m, chiều rộng 0,60m, chiều cao 1,15m, đây là nơi đặt tượng Tam toà Thánh Mẫu. Lớp bàn thờ thứ 2 (kích thước 1,85m, rộng 0,85m, cao 1m), là nơi đặt đài nước (cũ), 1 bát hương sứ và 1 chuông đồng.
Nhà Tiền đường: các ban thờ được bố trí như sau:
Ban thờ ở gian giữa được phân thành 2 lớp: Lớp trên có kích thước chiều 1,6m, chiều rộng 0,68m, chiều cao 1,08m; lớp dưới có kích thước chiều dài 1,6m, chiều rộng 0,90m, chiều cao 0,90. Đây là ban thờ công đồng – nơi đặt bát hương, mâm bồng, đài nước, ống hương, lư hương đồng, chân đèn đồng, hạc đồng.
Ban thờ bên Hữu: là một bệ thờ xây gạch trát vữa xi măng có kích thước chiều dài 2,5m, chiều rộng 0,65m, chiều cao 0,85m. Trên ban thờ được bài trí gồm có ngai thờ, khay mịch, khám thờ, bát hương sứ. Đây là ban thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo).
Ban thờ bên Tả: Bệ thờ xây bằng gạch, trát vữa xi măng có kích thước chiều dài 2,5m, chiều rộng 0,65m, chiều cao 0,85m là ban thờ bà Chúa Chầu. Đồ thờ được bài trí gồm bát hương sứ, đài nước.
Ngoài ra, ở trong Phủ, còn lưu giữ được một số di vật cũ có giá trị như biển thờ (thượng đẳng), thanh trượng, bát hương đá hình trụ vuông, vv...
Tóm lại, Phủ Vĩnh Khê, tuy mới được tôn tạo lại, nhưng kết cấu kiến trúc truyền thống bốn mái với mặt bằng hình chữ Đinh (J) theo kiểu dáng kiến trúc xưa, là đặc điểm tiêu biểu cho một loại hình kiến trúc tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam nói chung, vì thế nó mang đầy đủ các giá trị về lịch sử, văn hoá, kiến trúc cần có để đảm bảo các tiêu chí lập hồ sơ để xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp Tỉnh theo quy định của Luật Di sản văn hoá.